Nguy cơ từ việc “trồng – chặt” cây theo xu hướng của nông dân
Hầu hết người nông dân trong các vùng nông thôn đều có xu hướng chọn trồng những loại cây mang lại lợi nhuận kinh tế cao, bất kể những chỉ đạo từ cơ quan chuyên môn và cơ quan quản lý của chính quyền.
Thực tế này rất rõ ràng ở các vùng nông thôn chuyên canh những loại cây trồng có ưu điểm kinh tế ở Đắk Lắk như cà phê, hồ tiêu, bơ và gần đây là sầu riêng. Tùy theo thời điểm và tình hình thị trường, người sản xuất ở đây đưa ra quyết định trồng cây nào mà không quan tâm đến những tác động tiêu cực sau này.
Ví dụ, trong thời kỳ thịnh vượng của cà phê (1994 – 2002), đại đa số nông dân tại Đắk Lắk đã trồng cà phê một cách đổ dồn, mặc kệ đất đai, khí hậu và nguồn nước có đủ để hỗ trợ không. Điều này đã phá vỡ kế hoạch canh tác của ngành nông nghiệp địa phương. Thay vì giữ trong khoảng 150.000 – 180.000 ha (phù hợp với điều kiện sinh thái), diện tích trồng cà phê tại Đắk Lắk vào thời điểm đó đã tăng lên hơn 280.000 ha. Kết quả là cung cấp vượt quá nhu cầu, cộng thêm những tác động tiêu cực từ thị trường cà phê toàn cầu khiến giá cà phê sụt giảm mạnh, thậm chí xuống còn 4 triệu đồng/tấn vào những năm 2008 – 2013. Hậu quả của tình hình này là cuộc sống của người nông dân trở nên khó khăn hơn, đặc biệt là những người trồng cà phê độc lập. Điều này chưa kể đến việc việc trồng cà phê vượt quy hoạch hơn 100.000 ha đã ảnh hưởng đến nguồn nước tưới (đặc biệt là nguồn nước ngầm) gây ra tình trạng hạn hán, ảnh hưởng không chỉ đến cà phê mà còn đối với nhiều loại cây trồng khác, gây rủi ro cho ngành nông nghiệp Đắk Lắk, bao gồm cả ngành cà phê – ngành chiến lược của địa phương.
Tất nhiên, khi cây cà phê không còn mang lại lợi nhuận, người dân đã chuyển sang trồng cây khác như hồ tiêu từ năm 2015 – 2018. Với giá cao lên đến 200.000 đồng/kg, hồ tiêu trở thành lựa chọn hàng đầu trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Diện tích trồng hồ tiêu đã tăng lên hàng chục nghìn ha ở nhiều huyện, thị trấn trên Đắk Lắk với phương pháp canh tác không rõ ràng, không quan tâm đến rủi ro (không chọn lựa giống cây); cách trồng đa dạng, từ gỗ, gạch, xi măng, cây gòn đến cả tre nứa. Kết quả, loại cây này cũng đã trải qua vòng đời như cà phê, giá cả dần giảm, không đủ để tái đầu tư và người trồng không còn hứng thú với hồ tiêu nữa.
Hiện tại, sầu riêng đã trở thành loại cây “vàng” mới, đặc biệt sau khi được phép xuất khẩu chính ngạch sang thị trường Trung Quốc. Người dân ở Đắk Lắk đã đổ vốn đầu tư vào việc trồng sầu riêng và chỉ trong hơn 5 năm, diện tích và sản lượng sầu riêng đã tăng đáng kể. Hiện tại, sầu riêng đóng góp vào việc làm giàu cho nhiều hộ nông dân ở Đắk Lắk. Do đó, nhiều huyện, thị xã và thành phố trên địa bàn đổ xô trồng sầu riêng vì lợi nhuận kinh tế hứa hẹn. Trong khi cà phê và hồ tiêu chỉ mang về khoảng 100 triệu đồng cho mỗi ha canh tác hàng năm sau khi trừ chi phí, sầu riêng có thể mang về 500 – 700 triệu đồng/vụ. Do đó, hiện tượng chuyển từ cà phê, hồ tiêu, bơ, mít sang trồng sầu riêng đang trở thành xu hướng tại nhiều địa phương ở Đắk Lắk và cả Tây Nguyên nói chung.
Dự kiến trong vài năm tới, diện tích và sản lượng sầu riêng ở Đắk Lắk sẽ tăng gấp đôi, đặt ra một loạt thách thức và cơ hội như: quy hoạch, mã vùng trồng (theo yêu cầu của Trung Quốc); quản lý và giám sát các vấn đề hại tổng hợp trên cây trồng; nguy cơ gian lận mã số vùng trồng, ảnh hưởng đến ngành hàng và ý thức xây dựng, bảo tồn hình ảnh nông nghiệp minh bạch, có trách nhiệm đối với người tiêu dùng sản phẩm đang “hot” này.
Vì vậy, theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan, để phát triển thị trường bền vững và tạo dấu ấn quốc tế cho sầu riêng Việt Nam, tất cả các thành phần trong chuỗi giá trị nông sản cần phải hợp tác chặt chẽ. Nhà nước, doanh nghiệp và nông dân, đặc biệt là các địa phương sản xuất, cần phải hợp tác trong việc xây dựng thương hiệu, quảng bá và đầu tư. Chỉ thông qua sự hợp tác này, thương hiệu sầu riêng Việt Nam mới có thể tỏa sáng trên thị trường quốc tế. Đây là một hướng đi không thể tránh khỏi, đòi hỏi sự cùng lòng của Nhà nước, doanh nghiệp và nông dân để đối mặt với thách thức và cơ hội trong tương lai, không tái lập “vở kịch trồng – chặt” như đã xảy ra trong nhiều thập kỷ trước đây.